Ca dao về phong tục, tập quán Việt Nam (Phần 1)

Tổng hợp những câu ca dao nói về phong tục và tập quán của người dân Việt Nam trên khắp mọi miền tổ quốc.

Ai đi cách trở sơn khê
Nhớ tô mỳ Quảng, tình quê mặn nồng.

Ai mà quyết chí tu hành,
Có đi Yên Tử mới đành lòng tu.
Chữ rằng phi hữu phi vô,
Có đi Đông độ mới đồ Tây phương.

Ai qua Yên Tử – Quỳnh Lâm,
Vĩnh Nghiêm chưa đến, thiền tâm chưa đành.

Ai về Bình Định mà nghe,
Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam.

An Lãng bánh đúc, bánh đa,
Ngân Cầu bánh bỏng, Hương La bánh bèo.

An Phú nấu kẹo mạch nha,
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua,
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng nghê.

Anh Sơn phủ bạc thiếp hòe,
Gió Nam Đàn thổi, Liễu về với xuân.

Ấy ngày mồng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây.

Ấy ngày mùng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây.
Hò chơi bên gái bên trai,
Xin cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.

Bà phải có ông chồng phải có vợ,
Giàu thì một lọ khó thì một niêu.
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Cũng không bỏ được Chùa Keo ngày rằm.

Ba Xã có lưới quăng chài,
Mật Ninh hút thuốc kéo dài cổ ra.

Bánh giầy nhất hạng Liễu Đôi,
Xẻ ra nửa cái thì ngồi mâm năm.
Ăn rồi no lóc no lăn,
Chép miệng tiếc rẻ, sang năm lại về.

Bậu về nhớ ghé Ba La,
Mua cân đường phổi cho ta với mình.

Bị rách nhưng lại có vàng,
Tuy rằng miếu đổ, thành hoàng còn thiêng.

Bích Chu đan cót đan nong,
Vân Giang nấu rượu, làng Thùng đánh dao.

Bỏ con bỏ cháu,
không ai bỏ mồng sáu chợ Dưng.

Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy,
Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La.

Cơm chiều ăn với cá ve,
Anh về nốc biển mà nghe câu hò.
Mấy người hát tối hôm qua,
Hôm nay ra hát cho ra hát cùng.

Hát đàn cho rạng đông ra,
Mai về quan bỏ nhà pha cũng đành.

Ai về Phú Thọ cùng ta,
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.

Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mùng chín tháng tám chọi Trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi Trâu.

Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng.

Chẳng về Hội Vật thì thôi,
Về thì đích phải xơi nồi lươn măng.
Đã ăn thì ăn đậu răng,
Lấy năm bảy cọc cho bằng người ta.
Ai ơi, muôn dặm đường xa,
Cái lươn quấn chặt lấy ba măng vòi.

Chim mía Ba La,
Cá bống sông Trà,
Kẹo gươngThu Xà,
Mạch nhaThi Phổ.

Cho dù cha mắng mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

Chùa làng dựng ở xóm côi,
Sớm hôm hai buổi nghe hồi chuông ngân.
Dân nghe chuông sớm dậy mần,
Kẻ thời chợ búa, người dân ra đồng.
Tiếng chuông người bạn trăm sông,
Quanh năm thức tỉnh người dân trong vùng.

Chùa nát nhưng có Bụt vàng,
Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng.

Cô gái lòng son
Không bằng tô son Vạn Tượng.

Con cháu đi đâu, ở đâu,
Triệu xuân cướp phết rủ nhau cùng về.

Đan giành có xã An Ninh,
Thợ mộc làm đình Đông Hồ, Vế, Diệc.

Đầu đình có giếng phong quang,
Có cây cổ thụ có hàng nghỉ ngơi.
Chợ Dưng mồng sáu tiệc vui,
Khắp nơi náo nức về chơi hội làng.

Dẫu rằng ông nảo ông nào,
Qua đền A Sào cũng mời xuống ngựa.

Đồn rằng An Thái Chùa Bà,
Làm chay hát bội đông đà quá đông.
Đàn bà cho chí đàn ông,
Xem xong ba ngọ lại trông đổ giàn.

Đồng Cống đan rọ, đan sàng,
Đang Lại dệt vải, chợ Hàm nhuộm thâm.
Trung Lãng thì tráng bánh đa,
Ngân Cầu bánh bỏng, Hưng La bánh bèo.

Dù ai buôn bán đâu đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Dù ai buôn đâu, bán đâu,
Nhớ ngày mở hội rủ nhau mà về.
Dù ai bận rộn trăm nghề,
Tháng hai mở hội thì về Trường Yên.

Dù ai đi đâu về đâu,
Nhớ về Bàn Giảncướp cầu hội xuân.

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em cũng chẳng bỏ chùa Keo hôm rằm.
Dù cho cha đánh mẹ vằm,
Em cũng chẳng bỏ hôm rằm chùa Keo.

Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em cũng chẳng bỏ Chùa Keo hôm rằm.
Dù cho cha đánh mẹ vằm,
Em cũng chẳng bỏ hôm rằm Chùa Keo.

Đu tiên mới dựng năm nay,
Cô nào hay hát kỳ này hát lên.
Tháng ba nô nức hội đền,
Nhớ ngày giỗ tổ bốn nghìn năm nay.
Dạo xem phong cảnh trời mây
Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về.
Khắp nơi con cháu ba kỳ,
Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài.
Sở cầu như ý ai ai,
Xin rằng nhớ lấy mùng mười tháng ba.
Nhớ ngày mùng bảy tháng ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy.

Đừng thấy miếu rách mà khinh,
Miếu rách mặc miếu, thần linh hãy còn.

Em về Bồ Địch, Giếng Vuông,
Sáo treo bốn bức, em buồn nỗi chi.

Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Gắng công kén hộ cốm Vòng,
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.

Hát cho con gái có chồng,
Con trai có vợ, mẹ dòng có con.
Còn trời còn nước còn non,
Còn câu quan họ em còn say sưa.

Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Hỡi cô thắt lưng bao xanh,
Có về An Phú với anh thì về.
An Phú có ruộng tứ bề,
Có ao tắm mát có nghề kẹo nha.

Kẻ Dầu có quán Đình Thanh,
Kẻ Rũi ta có Vạn Đình, Ba Voi.
Mười tám cất thuyền xuống chơi,
Mười chín giã bánh, hai mươi rước thần.

Kẻ Dầu có quán Đình Thành,
Kẻ Hạc ta có Ba Đình, Ba Voi.
Mười tám cất thuyền xuống bơi,
Mười chín giã bánh, hai mươi rước thần.

Lá hồ chợ São gánh ra,
Móc ở chợ Lối bán ra vở ngoài,
Khua nón thì ở chợ Luông,
Cái nón đôi luồng nó ở chợ Dưng.

Chú thích

(*) An Lãng: Làng An Lãng, tên Nôm gọi là làng Ráng, thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

(*) An Ninh: Làng An Ninh thuộc xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Làng có nghề mây tre đan tinh xảo, đặc biệt là đan giành.

(*) An Phú: Ngôi làng thuộc xã Nghĩa Độ, huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội. Xưa kia làng An Phú có nghề nấu kẹo mạch nha.

(*) An Thái: Ngôi làng thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Làng có nghề dệt lụa và nghề làm bún song thần.

(*) Anh Sơn: Phủ Anh Sơn cũ, nay là huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống hát phường vải.

(*) Ba La: Địa danh nay thuộc xã Nghĩa Dõng, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, có nghề truyền thống là trồng rau xanh.

(*) Ba Voi: Gò Ba Voi thuộc xã Kim Chân, tỉnh Bắc Ninh.

(*) Ba Xã: Một địa danh thuộc tỉnh Hà Bắc cũ.

(*) Bạch Hạc: Huyện Bạch Hạc (cũ) thuộc tỉnh Phú Thọ. Nơi đây có giống hồng ăn quả ngon nổi tiếng, thường được gọi là hồng Bạch Hạc hay Hồng Hạc.

(*) Bàn Giản: Một xã thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

(*) Bàn Mạch: Một làng thuộc xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, xưa có tên là làng Thùng Mạch. Làng có nghề rèn tồn tại từ lâu đời.

(*) Bích Chu: Một làng thuộc địa phận xã An Tường, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, có nghề đan nong, cót và nghề mộc.

(*) Bình Định: Một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, hàng trăm năm trước từng là cái nôi của võ cổ truyền Việt Nam.

(*) Bồ Địch: Ngôi làng thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, là nơi sản xuất nhiều chiếu cói và mành tre.

(*) Cầu Quan: Địa danh nay thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Tại đây vào thời nhà Lê có họp chợ trên bờ sông, và hàng năm đến đầu mùa xuân thì có tục bơi thuyền rồng.

(*) Chàng Lía: Chàng Lía là một anh hùng dân gian xuất thân từ kẻ cùng đinh, vùng dậy đem tài năng võ nghệ siêu quần của mình tập hợp lâu la lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Thanh thế chàng Lía vang động cả dải Nam Trung bộ hồi đầu thế kỷ 18, được xem là cánh én trên vòm trời chế độ phong kiến suy vi, báo hiệu cho mùa xuân phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn sau này. Hành trạng của chàng Lía đã phổ biến sâu rộng ở Đàng Trong thời điểm ấy và kéo dài qua nhiều thế hệ qua lối nói thơ, hát kể.

(*) Chợ Dưng: Một ngôi chợ thuộc làng Văn Trưng, xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, có hàng hoá vô cùng phong phú. Chợ mỗi tháng họp sáu phiên thu hút đông đảo dân chúng quanh vùng.

(*) Chợ Lối: Thuộc xã Xuân Lôi, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

(*) Chợ Luông: Thuộc xã Vân Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

(*) Chợ São: Thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.

(*) Chùa Bà: Ngôi chùa thuộc làng An Thái, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.

(*) Chùa Dâu: Chùa Dâu nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam.

(*) Chùa Quỳnh Lâm: Là một ngôi chùa cổ nổi tiếng thuộc phường Tràng An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, thuộc phạm vi Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều. Đây là một trong những trung tâm giáo hội Trúc Lâm thời Trần.

(*) Chùa Vĩnh Nghiêm: Còn được gọi là chùa Đức La, thuộc thôn Quốc Khánh, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đây được coi là chốn tổ của thiền phái Trúc Lâm, là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam và là trung tâm Phật giáo thời Trần.

(*) Chùa Yên Tử: Là một quần thể di tích nằm trên núi Yên Tử, phía Tây Bắc của thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Quần thể Yên Tử bao gồm 10 ngôi chùa, trong đó tiêu biểu nhất là chùa Đồng, ngự trị trên đỉnh núi ở độ cao 1068m so với mực nước biển. Chùa Yên Tử có hàng trăm am, tháp mộ các thiền sư, tượng đá thiên tạo, bia phật. Đây là nơi phát tích của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần.

(*) Don: Don không phải là đặc sản của riêng Quảng Ngãi, vì nó là loài hến nhỏ, sống nơi sông tiếp giáp với biển. Thế nhưng cách chế biến don của Quảng Ngãi lại nổi tiếng nhất, vì nó dân dã, dễ làm, nhưng để lại ấn tượng sâu nơi người ăn.

(*) Đền A Sào: Tọa lạc tại xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, là nơi thờ cúng Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Hưng Đạo Vương, để ghi nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương, dân làng A Sào đều mở hội tế lễ Đức Thánh Trần tại Đệ nhị sinh từ và lễ hội làng A Sào là một trong những lễ hội lớn nhất vùng.

(*) Đồng Cống: Thôn Đồng Cống thuộc xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Xưa là một làng nhỏ, người Công giáo chiếm tới hơn 80%, nên lương dân còn lại quá ít, không thể xây cất một ngôi đình riêng để thờ Thành Hoàng.

(*) Đông Hồ: Ngôi làng thuộc xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

(*) Đường phổi: Đường phổi là món ăn đặc sản ngon và đậm đà vị ngọt thanh của tỉnh Quảng Ngãi, tên gọi là đường phổi vì hình dạng của nó giống lá phổi.

(*) Giếng Vuông: Ngôi làng thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, là nơi sản xuất nhiều chiếu cói và mành tre.

(*) Lễ Giỗ tổ Hùng Vương, Phú Thọ: Lễ Giỗ tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch diễn ra tại Phú Thọ là một trong những lễ hội quan trọng của đất nước để tưởng nhớ công ơn của các vị vua Hùng.

(*) Hang Cắc Cớ: Hang Cắc Cớ thuộc khu di tích chùa Thầy ở xã Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội). Đây là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè.

(*) Hang Cắc Cớ: Hang Cắc Cớ thuộc khu di tích chùa Thầy ở xã Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội). Đây là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè.

(*) Bơi Đăm: Lễ hội bơi Đăm diễn ra từ mồng 9 đến 11 tháng Ba âm lịch là một hoạt động văn hóa tâm linh của người làng Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội nhằm tưởng nhớ đến Thành hoàng làng Bạch Hạc Tam Giang, vị thần che chở, chăm lo việc nước nôi cho dân cày cấy.

(*) Chọi Trâu: Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, còn gọi là đấu ngưu, là một tập tục cổ, có từ xa xưa, một lễ hội truyền thống của người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng; diễn ra vào ngày 9 tháng 8 Âm lịch hàng năm.

(*) Hội chợ Dưng: Lễ hội đền thờ Đức Ông, hay Lễ hội chợ Dưng, được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm, tại đền thờ Đức Ông nằm bên cạnh đầm Dưng, xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Lễ hội được tổ chức với mong ước cả năm đó cuộc sống của người dân được ấm no, mùa màng tốt tươi.

(*) Chùa Keo: Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Một năm chùa mở hội 2 lần, đó là Hội Xuân vào ngày mồng 4 tết Nguyên Đán và Hội chính mùa thu, từ ngày 13 đến ngày 15/9 âm lịch. Hội tháng 9 gắn liền với sự tích của Không Lộ Thiền Sư (13-9 là 100 ngày mất của ngài, còn 14 tháng 9 là ngày sinh).

(*) Hội Láng: Hội chùa Láng được mở vào ngày 7/3 âm lịch tại ngôi chùa của làng Láng thuộc phường Láng Thượng quận Đống Đa, Hà Nội. Tương truyền đó là ngày sinh cùa Thiền sư Từ đạo Hạnh vị thánh của làng Láng, người được dân làng thờ phụng tại ngôi chùa này.

(*) Hội chùa Tây: Nằm trên đỉnh núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP.Hà Nội, chùa Tây Phương là công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc, tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê, đặc biệt với kiệt tác 62 pho tượng Phật cổ được công nhận là bảo vật Quốc gia. Bắt đầu từ ngày 6/3 – ngày khai hội chính, đến ngày 10/3 hội chùa Tây Phương được tổ chức với nhiều tiết mục sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc như hát chèo, quan họ, các trò chơi dân gian, kéo co, đấu vật…

(*) Hội chùa Thầy: Được lập từ thời nhà Đinh (968 – 980), ngay chân núi Thầy trên thế đất rồng của xứ Đoài xưa (nay thuộc làng Hoàng Xá, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, ngoại thành Hà Nội), Chùa Thầy là ngôi chùa thuộc hàng cổ kính nhất Việt Nam. Hội chùa Thầy hằng năm diễn ra từ mùng 5 đến mùng 7 tháng Ba âm lịch, thu hút tăng ni phật tử cùng du khách từ khắp nơi đến tham quan, trẩy hội.

(*) Hội Dâu: Chùa Dâu nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam. Hội chùa mở vào ngày mồng 8 tháng tư đó là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Hội Dâu là hội của dân cư nông nghiêp, ý nghĩa quan trọng nhất của Hội Dâu là cầu cho mưa thuận gió hòa, ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp.

(*) Hội Đổ giàn: Chùa Bà có hội Đổ giàn được tổ chức vào ngày lễ Vu Lan, mang ý nghĩa đề cao tinh thần thượng võ của đất Tây Sơn – Bình Định. Giàn là một cái đài cao bằng tre, trên để các lễ vật như dê, gà, lợn quay. Cuối ngày hội thường có hát bội và tục “tranh heo”, người chủ bái từ trên giàn cao, sau khi xướng xong, tung heo quay xuống đất. Các võ sĩ chờ sẵn phía dưới, tung mình đón bắt con heo rồi vượt đám đông chạy ra ngoài. Giành được heo xem như là một vinh dự lớn cho làng giành được.

(*) Rã La: Làng La Khê, La Cả nay thuộc quận Hà Đông, TP. Hà Nội có tục tắt đèn vào đêm rã đám hội làng.

(*) Rước Giá: Lễ hội làng Giá được tổ chức từ ngày 10 đến 26/3 âm lịch hàng năm. Làng Giá, thuở trước có tên là Kẻ Sở, sau đó đổi là Cổ Sở và nay là đất thuộc hai xã Đắc Sở và Yên Sở (Hoài Đức, Hà Nội).

(*) Trường Yên: Hội Trường Yên là lễ hội lớn nhất tỉnh Ninh Bình diễn ra tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, kinh đô của nước Đại Cồ Việt xa xưa. Lễ hội được công nhận là lễ hội truyền thống cấp quốc gia vào năm 2015. Trước đây hội Trường Yên được tổ chức vào ngày 15/2 (âm lịch) hàng năm nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Tuy nhiên, những năm trở lại đây Lễ hội được tổ chức vào dịp đầu tháng 3 (âm lịch) hàng năm và đổi tên thành Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư.

(*) Hội Vật: Làng Liễu Đôi ở vùng đồng chiêm trũng thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, vào ngày xuân có Hội xuân với Hội vật võ, Hội thi nấu ăn có tên “món ăn trình làng”. Sau khi làng chấm giải, món ăn được bán cho khách thập phương cùng thưởng thức.

(*) Hương La: Thôn Hương La, huyện Lương Tài, Bắc Ninh

(*) Kẻ Dầu: Làng Dầu, còn gọi là làng Đạo Chân, thuộc xã Kim Chân, tỉnh Bắc Ninh. Quán Đình Thanh vốn ở cánh đồng Bờ Thành, liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng. Hội làng Đạo Chân diễn ra vào ngày 18 – ngày 20 tháng mười âm lịch, có tục đua thuyền, thi giã bánh giầy, rước tượng thần Thành hoàng.

(*) Kẻ Rủi: Còn gọi là làng Kim Đôi, thuộc xã Kim Chân, tỉnh Bắc Ninh.

(*) Kẹo gương: Kẹo gương là loại kẹo đặc sản của tỉnh Quảng Ngãi, màu vàng trong suốt óng ánh giống gương soi, có vị thơm ngon, lạ miệng. Kẹo gương làm bằng đường cát trắng, mạch nha, mè và đậu phụng.

(*) Diệc: Ngôi làng thuộc xã Tân Sơn, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

(*) Làng Láng: Ngôi làng thuộc huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Nơi đây có chùa Láng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, hội chùa tổ chức vào tháng 3 âm lịch.

(*) Vế: Ngôi làng thuộc xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, có nghề thợ mộc chuyên làm các công trình kiến trúc cổ như đình, chùa, đền, miếu.

(*) Làng Vòng: Tên Nôm là làng Dịch Vọng, thuộc huyện Từ Liêm, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội. Làng có nghề làm cốm, gọi là “cốm Vòng”.

(*) Cướp cầu: Ngày 7 tháng Giêng âm lịch hàng năm, lễ hội đả cầu cướp phết được tổ chức tại xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Tương truyền, vào thời vua Hùng, bốn vị tướng lĩnh tài giỏi gồm Đệ nhất Xá Sơn, Đệ nhị Lê Sơn, Đệ Tam Tròn Sơn, Đệ tứ Xui Sơn được cử về trấn ải miền Đông Lai, Bản Giản, Lập Thạch để dẹp loạn, dẹp giặc, hộ quốc phù dân. Trong thời gian trấn nhậm, để rèn luyện sức khỏe và tài khéo cho quân lính, các vị tướng đã nghĩ ra một trò chơi khá gai góc, đó là đẽo gọt một quả cầu gỗ tròn nhẵn tựa quả bưởi lớn, bôi dầu mỡ cho trơn rồi lăn ra giữa bãi cho quân lính tranh cướp, ai giành được quả cầu đem về đặt nơi qui ước sẽ được tưởng thưởng. Bởi vậy, hàng năm cứ vào ngày mùng 7 tháng Giêng nhân dân trong vùng lại nô nức tụ hội tham gia lễ hội đả cầu-cướp phết vừa để ghi nhớ công lao của bốn vị tướng anh hùng, vừa để cầu cho một năm mới nhiều may mắn, tốt lành.

(*) Liễu Đôi: Làng ở vùng đồng chiêm trũng thuộc xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Làng có truyền thống võ vật, vào ngày xuân có Hội xuân với Hội vật võ, Hội thi nấu ăn có tên “món ăn trình làng”. Sau khi làng chấm giải, món ăn được bán cho khách thập phương cùng thưởng thức. Trong hội xuân còn có tục làm bánh giầy rất to và rất công phu.

(*) Mạch nha: Mạch nha là tên gọi dùng để chỉ loại mật dẻo được sản xuất từ ngũ cốc hay mạch nha (lúa mạch, đại mạch, hột lúa mạch mì đã có mầm, lúa, nếp…), có độ dẻo nhưng không dai, màu vàng sậm, vị ngọt thanh, thơm ngon mùi nếp.

(*) Mật Ninh: Làng còn gọi là Dật Ninh, tên Nôm gọi làng Nếnh, thuộc xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

(*) Mỳ Quảng: Mỳ có sợi mỳ được làm từ bột gạo chứ không phải bột mỳ. Người dân Quảng Nam rất tâm đắc với món ăn này, bởi lẽ nó là sự sáng tạo và cũng là niềm tự hào của những con người xứ Quảng. Nhiều người gốc Quảng Nam đi nơi khác sinh sống, lập nghiệp, vào ngày lễ tết vẫn nấu món mì này cho người thân và gia đình thưởng thức, như một cách những con người xa quê nhớ về nguồn cội.

(*) Nam Đàn: Huyện thuộc tỉnh Nghệ An, là nơi sản xuất tương ngon nổi tiếng.

(*) Nón thúng quai thao: Một chiếc nón thúng quai thao quan hệ mật thiết với 4 làng: lá hồ để làm nón mua ở chợ Sao; móc để khâu nón mua ở chợ Lối; khua nón mua ở chợ Luồng; làm xong được bán nhiều ở chợ Dưng.

(*) Ngân Cầu: Làng Ngân Cầu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

(*) Phú Thọ: Một tỉnh thuộc vùng đông bắc Việt Nam, được coi là vùng Đất tổ cội nguồn của Việt Nam. Tương truyền tại nơi đây các vua Hùng đã dựng nước nên nhà nước Văn Lang – nhà nước đầu tiên của Việt Nam, với kinh đô là Phong Châu, tức xung quanh thành phố Việt Trì ngày nay.

(*) Quảng Nam: Một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam.

(*) Sông Trà Khúc: Con sông lớn nhất ở tỉnh Quảng Ngãi, phát nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn với đỉnh cao 2.350 m do hợp nước của bốn con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lò (Selo), sông Rinh (Drinh), sông Tang (Ong).

(*) Thi Phổ: Một ngôi làng thuộc xã Lạc Phố, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, có nghề làm kẹo mạch nha.

(*) Thu Xà: Một ngôi làng thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, có nghề làm kẹo gương.

(*) Vạn Đình: Thôn Vạn Đình thuộc xã Kim Chân, tỉnh Bắc Ninh.

(*) Vạn Tượng: Làng nay thuộc xã Nghĩa Dõng, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, nổi tiếng với đặc sản là don.

(*) Vân Giang: Một thôn thuộc xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, có nghề nấu rượu.

Tin tức - Tags: , ,